Lao động Việt Nam đang trở thành tâm điểm chú ý của nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư toàn cầu nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế. Sự gia tăng về số lượng và chất lượng lao động là yếu tố then chốt tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững. Sau đây, hãy cùng JSC tìm hiểu về thực trạng nhu cầu lao động tại Việt Nam hiện nay để tận dụng tối đa tiềm năng và thu hút sự quan tâm từ các nhà đầu tư quốc tế.
Thu nhập bình quân của lao động
Thu nhập bình quân tháng của người lao động trong quý I năm 2024 đạt 7,6 triệu đồng tăng 549 nghìn đồng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, thu nhập bình quân tháng của lao động nam cao gấp 1,33 lần so với lao động nữ và thu nhập bình quân tháng của lao động ở khu vực thành thị cao gấp 1,42 lần so với khu vực nông thôn.
So với quý trước và cùng kỳ năm trước, vùng Đồng bằng sông Cửu Long ghi nhận mức tăng thu nhập khá cao. Tại các tỉnh như Đồng Tháp, Bạc Liêu và Tiền Giang thu nhập bình quân tháng của lao động đạt từ 6,9 triệu đồng. Ngược lại, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung gồm các tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An ghi nhận mức tăng trưởng thu nhập thấp nhất.
Đáng chú ý, thu nhập bình quân tháng của lao động Việt Nam tại cả ba khu vực kinh tế đều tăng. Khu vực dịch vụ ghi nhận mức tăng cao nhất với thu nhập bình quân tháng đạt 9,0 triệu đồng, tiếp theo là khu vực công nghiệp và xây dựng và cuối cùng là khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản với thu nhập trung bình 4,4 triệu đồng.
Mức tăng này phản ánh sự cải thiện đáng kể về thu nhập và đời sống của người lao động. Tuy nhiên, vẫn cần có nhiều nỗ lực hơn nữa để tiếp tục nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho người lao động trong tất cả các khu vực và ngành nghề.
Điểm danh các công ty bất động sản khu công nghiệp
Lý do nên đầu tư Việt Nam hiện nay
Số người và tỷ lệ thất nghiệp tại Việt Nam đã giảm xuống mức trước đại dịch. Trong quý I năm 2024, số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động đạt khoảng 1,05 triệu người, giảm 10,3 nghìn người so với quý trước và tăng 5,4 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Đặc biệt, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của khu vực thành thị tiếp tục duy trì dưới mức 3% kể từ quý I năm 2022.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên từ 15-24 tuổi trong quý I năm 2024 là 7,99%, tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước. Cả nước có khoảng 1,4 triệu thanh niên trong độ tuổi này không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo chiếm 11,0% tổng số thanh niên. Con số này giảm 51,5 nghìn người so với quý trước và giảm 125,5 nghìn người so với cùng kỳ năm trước.
Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp không cao, nhưng vẫn là vấn đề cần được chú ý để đảm bảo ổn định xã hội và kinh tế. Việc giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng cường cơ hội việc làm cho thanh niên là yếu tố then chốt để thúc đẩy sự phát triển bền vững của Việt Nam.
Lao động làm công việc tự sản tự tiêu
Từ cuối năm 2021, số lượng lao động làm công việc tự sản tự tiêu có xu hướng giảm dần qua các quý. Tuy nhiên, đến quý I năm 2024, con số này đạt 3,9 triệu người, tăng 492,4 nghìn người so với quý trước và giảm 51,3 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Phần lớn lao động làm công việc tự sản tự tiêu tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn chiếm 86,6% và ở nữ giới chiếm 63,7%.
Trong tổng số 3,9 triệu lao động này, có khoảng 2,1 triệu người đang trong độ tuổi lao động, tương ứng với 54,5%. Đáng chú ý, hầu hết lao động tự sản tự tiêu không có bằng cấp hoặc chứng chỉ. Trong bối cảnh thị trường lao động ngày càng yêu cầu cao về tay nghề và kỹ năng, cũng như nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái và thiếu tính ổn định, cơ hội để nhóm lao động này tìm được công việc tốt là rất khó khăn.
Dự báo tình hình lao động trong tương lai
Theo dự báo của HSBC, trong giai đoạn từ 2023 đến 2024, hầu hết các thị trường lao động trên toàn cầu sẽ chứng kiến sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Trong vòng 5 năm tới, dự kiến sẽ có khoảng 83 triệu việc làm bị giảm do sự thay đổi nhu cầu lao động trong một số ngành. Đồng thời sẽ có khoảng 69 triệu việc làm mới được tạo ra. Điều này dẫn đến một sụt giảm dự kiến 2% trên thị trường lao động toàn cầu, tương đương với khoảng 14 triệu việc làm.
Một trong những thách thức quan trọng là cơ cấu kỹ năng của lực lượng lao động hiện tại vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu của thị trường lao động. Dự báo cho thấy sẽ có sự thiếu hụt lao động trong các ngành đòi hỏi kỹ năng cao và kinh nghiệm chuyên môn. Ngược lại, vấn đề dư thừa lao động có thể xảy ra ở một số ngành công nghiệp nhẹ và nông nghiệp trong các năm tiếp theo.
Nhìn chung, thực trạng nhu cầu lao động Việt Nam hiện nay phản ánh một hình ảnh phức tạp và đa chiều của thị trường lao động. Mặc dù đã sự hồi phục nhưng vẫn còn tỷ lệ thất nghiệp cao ở thanh niên và chênh lệch kỹ năng. Để thu hút đầu tư và đáp ứng nhu cầu thị trường, Việt Nam cần tăng cường cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và khuyến khích phát triển bền vững.
Việt Nam đang hội nhập ngày càng mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu với kinh tế khu vực và thế giới. Các chủ thể kinh tế của Việt Nam đang trực tiếp tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu (CCUTC) của rất nhiều nhóm ngành hàng một cách toàn diện, từng bước khẳng định được vị thế của mình.
Hoạt động bán lẻ ở Việt Nam - một khâu trong CCUTC - đã đang và sẽ có những thay đổi đáng kể để phù hợp với sự thay đổi của CCUTC. Vì vậy, cần thiết có một nghiên cứu về thực trạng và một số khuyến nghị nhằm phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam năm 2022
Tác động sâu rộng của dịch COVID-19 và những xung đột chính trị - quân sự giữa một số quốc gia ở một số khu vực trên thế giới, cùng những yếu tố khó lường khác đang có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường bán lẻ toàn cầu, trong đó có thị trường bán lẻ Việt Nam.
Thị trường bán lẻ thế giới đang dần sôi động trở lại sau khi các quốc gia mở cửa lại nền kinh tế (muộn nhất là Trung Quốc – nền kinh tế thứ hai thế giới – sau 3 năm thực hiện chính sách “zero COVID”). Với những chính sách và giải pháp quyết liệt, sát với thực tế của Quốc hội và Chính phủ, kinh tế nước ta đã có sự phục hồi mạnh mẽ, có tác động tích cực tới sự phục hồi và tăng trưởng của thị trường bán lẻ trong nước. Theo Bộ Công Thương, quy mô thị trường bán lẻ nước ta năm 2022 đạt khoảng 142 tỷ USD và dự báo năm 2025 tăng lên 350 tỷ USD, đóng góp 59% tổng ngân sách (Nguyễn Vân, 2022). Thị trường bán lẻ trong nước sau 3 năm trầm lắng do đại dịch COVID-19 đã có những dấu hiệu tích cực trong năm 2022, thể hiện qua một số điểm sau:
- Doanh số bán lẻ đã có sự tăng trưởng nhanh. Đại bộ phận doanh nghiệp bán lẻ đều tin tưởng vào triển vọng tăng trưởng tốt của thị trường bán lẻ trong nước. Khảo sát 15.000 nhà bán hàng của Nền tảng quản lý và bán hàng Sapo năm 2022 cho thấy, tuy 42% nhà bán hàng ghi nhận sự sụt giảm doanh thu so với năm 2021, tình hình chung năm 2022 là sự phục hồi về doanh thu. Tỷ lệ nhà bán hàng có sự tăng trưởng doanh thu chiếm 37,72%, cao hơn năm 2021 (23,88%) và năm 2020 (30,7%). Số lượng nhà bán hàng có sự tăng trưởng trên 30%, doanh thu chiếm 6,36%.
- Các cơ quan quản lý nhà nước, các địa phương, doanh nghiệp liên tục thực hiện các hoạt động quảng bá, khuyến mại để thu hút khách hàng, đi kèm với các biện pháp đảm bảo an toàn phòng chống dịch trong điều kiện mới. Điển hình như: Bộ Công Thương phát động Tháng khuyến mại tập trung quốc gia 2022 - Vietnam Grand Sale 2022 trên phạm vi toàn quốc; các địa phương lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh… đều phát động Chương trình Tháng khuyến mại hàng năm; các siêu thị, trung tâm thương mại cũng phát động tháng khuyến mại trong năm với nhiều ưu đãi hấp dẫn cho khách hàng.
- Các chủ thể tham gia hoạt động bán lẻ (doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân) sử dụng đa dạng và linh hoạt phương thức tiếp cận với khách hàng; không chỉ dựa vào mạng lưới cửa hàng hoặc website bán hàng; áp dụng phương thức bán hàng đa kênh trên cả 2 nền tảng là trực tiếp và trực tuyến.
- Tác động từ giai đoạn bị phong tỏa do dịch COVID-19 và bùng nổ các ứng dụng mới của AI, IoT, Bigdata… đã thúc đẩy mạnh mẽ thương mại điện tử với các phương thức khác nhau (website, mạng xã hội, marketplace…), tạo ra những tiện ích mới cho khách hàng khi “dạo quanh thị trường” để tìm kiếm thông tin và quyết định mua hàng.
- Tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam’’, tăng tỷ trọng hàng Việt Nam trong danh mục mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự phục hồi và tăng trưởng của sản xuất trong nước. Kết quả thăm dò dư luận xã hội về việc thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” do Viện Dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo Trung ương triển khai vào tháng 9/2022 cho thấy, 94% người được hỏi cho rằng Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã ít nhiều có hiệu quả đối với việc thay đổi nhận thức và hành vi ưu tiên mua và sử dụng hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam. Trong đó, tỷ lệ người đánh giá “Hiệu quả cao” đạt 43%, tỷ lệ đánh giá “Hiệu quả có mức độ” chiếm đa số (51%) (Bảo Châu, 2022).
- Các chủ thể bán lẻ ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0, AI, chuyển đổi số, eBanking… trong tổ chức kinh doanh và quản lý, tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, về nhân lực, về chia sẻ và bảo mật thông tin với các đối tác và khách hàng.
- Những mô hình kinh doanh hiện đại có sự phát triển nhanh chóng, như: cửa hàng tiện lợi (MiniMart; Conveniences Story): Family Mart (Nhật Bản), 7 Seven (Mỹ), Circle K (Mỹ), Winmart+ (Việt Nam), K-Mart (Việt Nam)…, các trung tâm thương mại như: AEON (Nhật Bản), VinCom, Go!, MegaMaill… Trong đó, mô hình cửa hàng tiện lợi đã được phát triển ở các khu vực ngoài đô thị do phát huy được lợi thế về tính chất mặt hàng (chủ yếu là hàng nhật dụng), quy mô không gian cửa hàng không lớn, linh hoạt trong lựa chọn địa điểm. Những mô hình hiện đại này đã góp phần làm thay đổi phương thức kinh doanh và phục vụ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của khách hàng; tăng mức độ cạnh tranh trong hoạt động bán lẻ.
Bên cạnh những kêt quả tích cực, thị trường bán lẻ trong nước vẫn còn một số hạn chế, khó khăn như: vẫn còn hàng hóa nhập lậu, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng... được đưa vào kinh doanh (kể cả ở một số trung tâm thương mại, chuỗi siêu thị của doanh nghiệp bán lẻ lớn); thị trường khu vực nông thôn, miền núi, vùng xa chủ yếu hoạt động bán lẻ vẫn do các doanh nghiệp nhỏ, hộ gia đình kinh doanh, gây khó khăn trong công tác quản lý; mối liên kết trong chuỗi cung ứng giữa nhà bán lẻ với nhà sản xuất (nhất là với hàng nông sản) có lúc, có khu vực chưa tốt, chưa thể hiện được vai trò kết nối giữa sản xuất với tiêu dùng; kiểm soát hoạt động bán lẻ trên nền tảng mạng xã hội (Facebook, TikTok, Zalo...) còn hạn chế.
Nhằm phát triển thị trường bán lẻ trong nước, tác giả khuyến nghị với các chủ thể có liên quan đến hoạt động bán lẻ của Việt Nam như sau:
- Bộ Công Thương đề xuất với Quốc hội, Chính phủ tiếp tục thực hiện một số chính sách về tài chính, về quy hoạch và phát triển lĩnh vực logistics (trọng tâm là về hạ tầng giao thông vận tải)… để hỗ trợ cho hoạt động thương mại.
- Tăng cường sự phối hợp liên ngành để giải quyết việc cấp phép đầu tư vào lĩnh vực thương mại; ngăn ngừa và xử lý nghiêm khắc tình trạng gian lận thương mại; hỗ trợ việc chuyển đổi số trong lĩnh vực thương mại.
- Các địa phương trên cơ sở phân cấp về thẩm quyền, thực hiện tốt việc quy hoạch về phát triển mạng lưới bán lẻ; đơn giản hóa thủ tục hành chính và hỗ trợ việc đầu tư các cơ sở kinh doanh theo mô hình hiện đại về vị trí bố trí cơ sở kinh doanh, liên kết với nhà xuất địa phương trong cung ứng hàng hóa.
- Tăng cường mối liên kết với các thành viên trong chuỗi cung ứng (nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ logistics, ngân hàng, viễn thông...) theo hướng bền vững, ổn định và lâu dài để đảm bảo được sự ổn định, khả năng kiểm soát từ nguồn của mặt hàng kinh doanh cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng.
- Mở rộng mô hình kinh doanh hiện đại dưới dạng cửa hàng tiện lợi (theo phương thức nhượng quyền) ở thị trấn, thị tứ, điểm du lịch tại khu vực nông thôn, miền núi.
- Với các doanh nghiệp bán lẻ kinh doanh theo mô hình chuỗi cửa hàng - siêu thị, trung tâm thương mại (như WinMart, Coo-Mart, Bách hóa xanh, Hapro...) cần tiếp tục có sự cải tiến về mô hình kinh doanh, tạo sự khác biệt để nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Tăng cường hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất, quy hoạch không gian cửa hàng, huấn luyện kỹ năng phục vụ của nhân viên để tạo ra sự trải nghiệm tốt hơn cho khách hàng. Với bán lẻ trực tiếp, điều này được thể hiện ở quy hoạch không gian cửa hàng, thiết kế tủ giá bày hàng bắt mắt, tinh thần và thái độ của đội ngũ nhân viên, tính đa dạng và thường xuyên đổi mới mặt hàng kinh doanh. Với bán hàng trực tuyến thể hiện ở việc thiết kế website bán hàng, tính thuận tiện trong việc tiếp cận và tương tác của khách hàng. Với các mạng xã hội, đề cao việc sáng tạo nội dung (contents creation), sử dụng người ảnh hưởng KOLs (key opinion leader), lưu giữ hồ sơ truy cập về sản phẩm của khách hàng…
- Tích cực tham gia vào hình thành “chuỗi cung ứng xanh”, “chuỗi cung ứng tuần hoàn” thể hiện qua việc giảm sử dụng túi nilon đựng hàng cung cấp cho khách hàng; thu hàng cũ đổi hàng mới (với hàng điện tử - điện lạnh), xử lý hàng thực phẩm đến hạn sử dụng hợp lý hơn (tập hợp, phân loại để làm công tác xã hội – từ thiện); phối hợp với người sản xuất sử dụng bao bì hàng hóa chế tạo từ nguyên liệu thân thiện với môi trường hoặc tăng khả năng tái sử dụng, tái chế...
- Sử dụng đa dạng các hình thức thanh toán. Đây là xu hướng với các nhà bán lẻ do thành tựu công nghệ được ứng dụng trong lĩnh vực ngân hàng (eBanking), hạ tầng mạng viễn thông, xu hướng sử dụng đồng tiền số (Trung Quốc đang đi đầu trong việc phát triển và thí điểm sử dụng đồng nhân dân tệ số). Đồng thời, đây cũng là yêu cầu bắt buộc khi Chính phủ yêu cầu các chủ thể kinh doanh từng bước hạn chế việc giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt.
- Gia tăng việc sử dụng các nền tảng xã hội (Facebook, Instagram,YouTube, Zalo, TikTok...) để khai thác cơ hội khách hàng ngày càng sử dụng nhiều phương tiện công nghệ thông minh (điện thoại, máy tính, TV...). Với việc tăng thêm các mạng xã hội và gia tăng số lượng người tham gia, truy cập; độ tuổi của người tham gia và theo dõi ngày càng đa dạng; khả năng tương tác nhanh và linh hoạt, có thể uplowd theo thời gian thực… các nền tảng xã hội đang thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng bán hàng Social commerce. Các nền tảng này cho phép người bán hàng sử dụng các tính năng livestream, video 360 độ, hình ảnh 3D, trí tuệ nhân tạo AI… để nâng cao hiệu quả tiếp cận, tương tác và mang đến những trải nghiệm mua sắm phong phú, từ đó thúc đẩy người tiêu dùng đưa ra quyết định mua hàng và khả năng đáp ứng đơn hàng một cách nhanh chóng.
- Tham gia xây dựng “chuỗi cung ứng xanh”, “chuỗi cung ứng tuần hoàn”. Đây là vấn đề cấp bách do áp lực từ tình trạng biến đổi khí hậu, những thay đổi có tính cực đoan khó lường về khí hậu thời tiết; tình trạng suy kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, rác thải… Chính phủ Việt Nam đang tích cực thực hiện các cam kết tại Hội nghị COP26, đã đưa ra nhiều chính sách, giải pháp để thực hiện cam kết với cộng đồng quốc tế; đồng thời cũng tạo áp lực lên các chủ thể sản xuất kinh doanh trong nước để thực hiện. Việc xây dựng/tham gia các dạng chuỗi cung ứng trên, không còn là trách nhiệm xã hội mà còn là yêu cầu bắt buộc, liên quan đến lợi ích của các thành viên tham gia chuỗi, của quốc gia và có ý nghĩa toàn cầu.
- Chú trọng đến nghiên cứu nhu cầu mua sắm của khách hàng trẻ tuổi (thế hệ gen Z) do chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu dân số, có khả năng tiếp cận nhanh chóng với nền kinh tế số, có sự độc lập về kinh tế, xu hướng tiêu dùng thay đổi nhanh với sự đa dạng về cơ cấu, mẫu mã hàng hóa. Nhà bán lẻ phải đa dạng cách thức chào hàng, thường xuyên đổi mới danh mục hàng hóa và tăng mức độ trải nghiệm cho nhóm khách hàng này.
- Tăng cường mối liên kết với các thành viên khác trong hoạt động du lịch, trong bối cảnh thị trường du lịch Việt Nam đã mở cửa trở lại, sớm hình thành dạng TourShopping, hoặc hình thành điểm đến mua sắm trong tour của các doanh nghiệp du lịch lữ hành dành cho khách du lịch.
1. Bảo Châu (2022), Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” làm thay đổi nhận thức và hành vi của người tiêu dùng, truy cập từ https://tuyengiao.vn/nhip-cau-tuyen-giao/ban-tuyen-giao-tw/cuoc-van-dong-nguoi-viet-nam-uu-tien-dung-hang-viet-nam-lam-thay-doi-nhan-thuc-va-hanh-vi-cua-nguoi-tieu-dung-141624.
2. Nguyễn Vân (2022), Thị trường bán lẻ dự kiến sẽ sôi động trong năm 2023, truy cập từ https://thoibaotaichinhvietnam.vn/thi-truong-ban-le-du-kien-se-soi-dong-trong-nam-2023-119489.html.
3. Nền tảng quản lý và bán hàng Sapo (2022), Kết quả khảo sát 15.000 nhà bán lẻ năm 2022.
4. Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 1163/QĐ-TTg, ngày 13/7/2021 phê duyệt Chiến lược “Phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
5. Trường Đại học Thương mại (2023), Báo cáo thường niên kinh tế và thương mại Việt Nam năm 2022, Nxb Hồng Đức
1. Môi trường ô nhiễm, suy thoái – Vấn đề cấp bách hiện nay đối với toàn thế giới
Môi trường sinh thái là một mạng lưới chỉnh thể, hữu cơ, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau giữa đất, nước không khí và cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu. Sự rối loạn bất ổn định ở khâu nào đó trong hệ thống sẽ gây ra hệ quả nghiêm trọng. Con người và xã hội xuất thân từ tự nhiên, là một bộ phận của thiên nhiên. Thông qua quá trình lao động, con người khai thác, bảo vệ bồi đắp cho thiên nhiên, nhưng qua quá trình đó, con người xã hội dần dần có sự đối lập, hủy hoại môi trường sống tự nhiên của mình. Hiện nay, trái đất ngôi nhà chung của chúng ta hiện nay với gần 8 tỷ người đang sinh sống, đang phải oằn mình gánh chịu những hậu quả nặng nề gắn với thực trạng hành tinh xanh đang kêu cứu, do tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng gay gắt. Có thể khái quát một số xu hướng nổi bật của trạng thái này như sau:
– Tình trạng “lá phổi xanh” của trái đất ngày càng loang lổ do nạn phá rừng gia tăng tại nhiều quốc gia. Trong những năm gần đây, tại Braxin, phá rừng tiếp tục là vấn nạn nhức nhối, năm 2020, quốc gia Nam Mỹ này chứng kiến hoạt động tàn phá rừng Amazon tăng mạnh trở lại, lên mức cao nhất trong 12 năm qua. Theo Viện nghiên cứu vũ trụ quốc gia Braxin (INPE) hơn 11.000 km2 của nước này đã bị phá hủy trong vòng 12 tháng. Được ví như “lá phổi xanh” của trái đất và là nguồn sống cho công cuộc chống biến đổi khí hậu hiện nay, Amazon là rừng nhiệt đới lớn nhất thế giới với gần 7,6 triệu km2, trong đó 60% nằm trong lãnh thổ Braxin. Bên cạnh nạn phá rừng gia tăng, tình trạng cháy rừng cũng ngày càng tồi tệ tại khu vực này cũng như nhiều nước trên thế giới như tại Úc, Mỹ và nhiều quốc gia khác. Cháy rừng đã tàn phá cây rừng và thảm thực vật, như tại Úc năm ngoái đã phát thải ra 369 triệu tấn cacbon dioxit (CO2).
– Tình trạng nóng lên của trái đất. Theo tổ chức Khí tượng thế giới, nhiệt độ trung bình của trái đất trong giai đoạn 2020 – 2024 sẽ tăng trên 1,5 độ C so với trung bình thời kỳ tiền công nghiệp, bởi lượng CO2 và khí thải gây hiệu ứng nhà kính ngày càng gia tăng. Nhiệt độ trái đất gia tăng đã tạo ra các đợt nắng nóng gay gắt tại nhiều quốc gia như tại Ấn Độ, thủ đô Niu Deli trải qua mùa nóng tồi tệ nhất trong vòng 20 năm qua, miền Trung của Việt Nam cũng trải qua tình trạng nắng nóng này.
– Báo động tốc độ băng tan, nhiệt độ tăng cao cũng khiến cho băng tan nhanh hơn. Theo các nhà nghiên cứu, do biến đổi khí hậu, môi trường bị tàn phá nên lượng băng tan trải từ khối lượng khổng lồ tại Greenland đang ở mức cao nhất trong hơn 10.000 năm qua. Theo dự báo, nếu lượng khí thải nhà kính không được kiểm soát, khối băng lớn thứ hai thế giới và dài hàng km ở Bắc Cực này sẽ tiếp tục mất đi hàng ngàn tỷ tấn, khiến mực nước biển toàn cầu dâng lên 10 cm. Tình trạng băng tan với tốc độ chóng mặt cũng xảy ra tại Nam Cực, nơi có dải băng lớn nhất hành tinh. Khảo sát gần đây tại vùng băng giá này cho thấy, vùng đất băng giá này đang bị bào mòn với tốc độ gấp 6 lần so với 40 năm trước.
Tình trạng nước biển dâng sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống hàng tỷ người trên trái đất, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp, đến quy hoạch đô thị, cuộc sống của người dân.
– Tình trạng suy thoái về môi trường sinh thái gắn liền với hiện tượng suy thoái tầng Ozon. Tầng Ozon là lớp khí O3 rất dày bao bọc trái đất như một cái đệm bảo vệ trái đất khỏi những tia cực tím của mặt trời chiếu xuống trái đất. Thực tế cho thấy, tầng Ozon bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của trái đất.
– Suy thoái môi trường còn thể hiện ở sự ô nhiễm không khí, nguồn nước sạch, đặc biệt do ảnh hưởng của phát triển các ngành công nghiệp, nhất là ngành công nghiệp gây ô nhiễm.
Do vậy, vấn đề bảo vệ môi trường không còn là vấn đề riêng của một quốc gia mà còn là vấn đề cấp bách của toàn nhân loại. Mặc dù vấn đề này đã được cảnh tỉnh từ lâu như từ ngày 5/6/1972 tại Stockhom Thụy Điển, các nhà khoa học và đại diện chính phủ nhiều nước đã họp Hội nghị môi trường thế giới đầu tiên với sự tham gia của hơn 100 quốc gia và tổ chức quốc tế với khẩu hiệu “Con người hãy cứu lấy cái nôi của chúng ta”, sau đó thế giới coi ngày 5/6 hàng năm là ngày Môi trường thế giới. Sau đó, tháng 6/1992 tại Braxin, Hội nghị Thượng đỉnh về môi trường thế giới với sự tham gia của hơn 100 quốc gia và tổ chức quốc tế, một lần nữa, khẳng định tình trạng suy thoái môi trường nghiêm trọng, kêu gọi mọi quốc gia hãy hợp tác hiệp lực và có trách nhiệm nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Sau đó, nhiều hội nghị về bảo vệ môi trường quốc tế được diễn ra, song tình trạng ô nhiễm suy thoái môi trường không được cải thiện đáng kể là bao. Vấn đề ô nhiễm môi trường tiếp tục là vấn đề nan giải, nóng bỏng hiện nay đối với nhiều quốc gia.
Tại Mỹ, tân tổng thống Joe Biden quyết định đưa nước Mỹ, quốc gia phát thải khí nhà kính lớn thứ hai thế giới trở lại với Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu; đồng thời thiết lập chức danh Đặc phái viên của tổng thống về vấn đề khí hậu do Cựu ngoại trưởng John Kerry đảm nhiệm.
Thực tiễn phát triển của thế giới cho thấy, phát triển bền vững là xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới, nội dung của phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa của ba vấn đề, về phát triển kinh tế, xã hội và môi trường. Yếu tố bền vững được thể hiện trong từng nội dung trên và sự kết hợp giữa các mặt kinh tế – xã hội – môi trường.
Năm 2015, hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về phát triển bền vững đã thông qua văn kiện “Chuyển đổi thế giới của chúng ta: Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững” với 17 mục tiêu tổng quát và 169 mục tiêu cụ thể về phát triển bền vững (SDGs), trong đó vấn đề tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu tiếp tục là các mục tiêu ưu tiên. Trên góc độ này, quan niệm về phát triển xanh đang được thống nhất về nhận thức và trở thành ngày càng phổ biến. Mặc dù Liên hợp quốc chưa có định nghĩa về phát triển xanh, tuy nhiên theo các chuyên gia và nhiều nước quan niệm cho rằng: “Phát triển xanh” là hình thức phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, tiêu hao ít tài nguyên và không gây hại đến môi trường sinh thái. Có thể nói ngắn gọn: “Phát triển xanh” chính là sản xuất xanh và tiêu dùng xanh, sản xuất và tiêu dùng thân thiện với môi trường cũng như đem lại hiệu suất, hiệu quả cao. Chỉ tiêu tổng hợp nhất là GDP xanh được dùng để phản ánh sự phát triển xanh. Cho đến nay, quan điểm chung cho rằng: “Kinh tế xanh” hay “tăng trưởng xanh” là hình thức phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường, tiêu hao ít tài nguyên và không gây hại đối với môi trường sinh thái, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế tri thức. Như vậy, phát triển xanh là phát triển dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức với nền tảng dân trí giáo dục cao.
2. Một số vấn đề về môi trường ở Việt Nam hiện nay
Mặc dù là một nước nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, với mục tiêu đến năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước CHXHCN Việt Nam, trở thành nước phát triển thu nhập cao theo định hướng XHCN, tuy nhiên Việt Nam cũng phải đang đối diện với nhiều vấn đề môi trường gay gắt. Với quy mô dân số gần 100 triệu dân, đặt ra những vấn đề gay gắt về dân sinh, cải thiện đời sống, tăng thu nhập và vấn đề bảo vệ môi trường. Hiện nay, hiểm họa môi trường sinh thái ở nước ta dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, biến đổi khí hậu, nhất là mâu thuẫn giữa phát triển và lạc hậu, do ảnh hưởng nặng nề của nếp suy nghĩ, nếp làm thói quen của người sản xuất nhỏ tiểu nông chưa hoàn thiện. Có thể thấy một số biểu hiện cụ thể của vấn đề môi trường ở Việt Nam hiện nay như sau:
– Thiên nhiên nước ta ngoài bị ảnh hưởng tác động của chiến tranh trước đây, hiện nay còn bị phá hoại bởi hoạt động vô ý thức, thái độ tủy tiện vô trách nhiệm, thiếu kế hoạch trong việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Theo thống kê trước năm 1945, rừng bao phủ chiếm tỉ lệ 43,8%, hiện nay chỉ còn hơn 28% (tức là dưới mức báo động 30%). Diện tích đất trồng trọt đang bị sói mòn tăng mạnh lên khoảng 13,4 triệu ha. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do du canh du cư, khai thác gỗ vô tội vạ, mở mang giao thông , xây dựng thủy điện …chưa theo quy hoạch thống nhất. Vấn đề quy hoạch sử dụng đất chưa hợp lý, đang làm lãng phí nguồn tài nguyên quý giá này của đất nước.
– Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái gia tăng đang là vấn đề nan giải hiện nay. Nhiều nhà máy xả ra chất thải công nghiệp, sinh hoạt, chất độc hại của quá trình sản xuất không được xử lý nghiêm túc mà đưa trực tiếp vào môi trường, gây tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái, gây bệnh tật cho người dân. Theo thống kê của Bộ tài nguyên Môi trường, hiện nay cả nước có hơn 5400 làng nghề, riêng Hà Nội có hơn 1350 làng nghề, tuy nhiên 95% hoạt động sản xuất gây ô nhiễm môi trường, hơn 50% gây ô nhiễm nghiêm trọng. Đây là những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, công nghệ nhìn chung lạc hậu, chưa đầu tư thích đáng vào xử lý ô nhiễm môi trường, chất thải.
– Nồng độ bụi ở đô thị vượt quá nhiều lần chỉ tiêu cho phép. Nồng độ khí thải CO2 nhất là ở các thành phố lớn, khu công nghiệp vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần. Ngoài ra, ô nhiễm tiếng ồn cũng là vấn đề nan giải đối với các khu dân cư.
– Bên cạnh đó, vấn đề khai thác mỏ, vật liệu xây dựng, vàng đá quý… chính thức và tự do cũng đã và đang làm hủy hoại môi trường sinh thái. Việc sử dụng mìn khai thác ở nhiều lĩnh vực đang làm phá hoại sự cân bằng về hệ sinh thái môi trường.
Theo nhiều chuyên gia quốc tế, Việt Nam hiện nay đang phải đương đầu với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng như nạn phá rừng, sói mòn đất, việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên ven biển đe dọa tới các hệ sinh thái, sự đa dạng sinh học và sự cạn kiệt nguồn gien. Thực trạng môi trường này đi cùng với vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng đang đặt ra những vấn đề nóng bỏng thách thức đối với sự phát triển nhanh và bền vững của Việt nam trong thời gian tới (Việt Nam được đánh giá là một trong năm nước chịu tác động mạnh nhất của vấn đề biến đổi khí hậu).
3. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề môi trường ở Việt Nam.
Bảo vệ môi trường, tăng cường quản lý tài nguyên, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm, ban hành nhiều chủ trương chính sách, xử lý kịp thời những vấn đề đặt ra. Năm 2004, ở Việt NamThủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 153/2004/QĐ TTg ngày 17/08/2004, “Ban hành định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị sự Agenta 21 của Việt Nam) nhằm phát triển bền vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”.
Năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 đã đưa ra quan niệm về môi trường: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”. Năm 2020, Luật bảo vệ môi trường sửa đổi bổ sung tiếp tục được hoàn thiện, bổ sung và Quốc hội đã phê duyệt.
Năm 2017, Thủ tướng chính phủ đã ký phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững với 17 mục tiêu chung và 115 mục tiêu cụ thể tương ứng với các mục tiêu phát triển bền vững của toàn cầu.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định nhận thức về bảo vệ môi trường được nâng lên, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và tăng cường đầu tư cho lĩnh vực này, hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức của thế giới trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, văn kiện Đại hội XII cũng thẳng thắn nhìn vào những yếu kém như: “Tài nguyên chưa được quản lý, khai thác sử dụng có hiệu quả và bền vững; một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt. Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về môi trường do chiến tranh để lại còn chậm. Đa dạng sinh học suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội, sức khỏe của nhân dân. Chất lượng công tác dự báo và quy hoạch còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển, chưa đảm bảo tính tổng thể, tính liên ngành liên vùng; chưa rõ trọng tâm trọng điểm và nguồn lực thực hiện”(1).
Xuất phát từ thực trạng trên, văn kiện Đại hội XII của Đảng đề ra nhiệm vụ:
“Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, phục vụ phát triển bền vững…ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do chủ quan con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra. Bảo vệ môi trường tự nhiên vừa là nội dung, vừa là mục tiêu phát triển bền vững. Hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phục hồi môi trường cho khai thác khoáng sản. Đảm bảo sự hài hòa giữa môi trường tự nhiên với môi trường sống ở các khu công nghiệp, đô thị dân cư. Phát triển kinh tế – xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường. Tăn cường phổ biến pháp luật và tuyên truyền trong xã hội về bảo vệ môi trường. Tích cực hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu” (2)
Về hệ thống giải pháp bảo vệ môi trường, Đảng ta cho rằng, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường, tăng cường phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên. Hạn chế tiến tới khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường ở nông thôn, các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, khu đô thị, làng nghề…Đẩy mạnh xã hội hóa cùng với việc bố trí nguồn lực ngân sách Nhà nước đầu tư cho các công trình trọng điểm, phục hồi môi trường dân sinh.
Tiếp đến Đại hội XIII của Đảng, tháng 1 năm 2021, tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng đối với vấn đề môi trường trong bối cảnh mới như: “Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe của nhân dân là mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ những mục tiêu cần thực hiện trong thời gian tới như: “Đến năm 2025, tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95% – 100%, và nông thôn là 93 – 95%,; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đảm bảo tiêu chuẩn, quy hoạch quy chuẩn đạt 90%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý chất thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường đat 92%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42%” (3)
Thực hiện mục tiêu trong dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2020 – 2025 là:
+ “Tỷ lệ chất thải y tế được xử lý là 100%, tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng tiêu thụ cuối cùng là 31,5%”
+ Tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh đến năm 2025 của dân cư thành thị là 95 – 100%, nông thôn là 93 – 95%.
+ Tỷ lệ thu gom xử lý chất rắn, chất thải rắn sinh hoạt đô thị, đảm bảo quy chuẩn đạt 90%.
+ Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đã hoạt động có hệ thống xử lý chất thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đến năm 2025 đạt 92%.
+ Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đến năm 2025 đạt 100%.
+ Tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42%.
Với tinh thần quyết tâm phấn đấu đạt được chỉ tiêu cao nhất, đồng thời chuẩn bị các phương án để chủ động thích ứng với những biến động tình hình. (4)
Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ mục tiêu thực hiện tốt chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng – an ninh – bảo vệ chủ quyền biển đảo, tài nguyên môi trường biển… nâng cao năng lực giám sát môi trường biển. Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, văn kiện Đại hội XIII khẳng định chủ trương về môi trường và các mục tiêu, giải pháp cụ thể như: Xây dựng hệ thống, cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường và biến đổi khí hậu. Có kế hoạch khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân. Tập trung xử lý chất thải, thúc đẩy tái sử dụng, tái chế. Huy động các nguồn lực thực hiện đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình để bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tăng cường kiểm soát các hoạt động khai thác tài nguyên, các ngành, doanh nghiệp dựa nhiều vào tài nguyên, các nguồn gây ô nhiễm, nguồn phát thải khí nhà kính. Đấu tranh và ngăn chặn, xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường, đẩy lùi tình trạng ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên và sự suy giảm đa dạng sinh học. Chủ động tích cực hợp tác quốc tế trong việc chia sẻ thông tin, phối hợp nghiên cứu, quản lý khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, bảo đảm an ninh suy thoái, an ninh nguồn nước, an ninh môi trường, an ninh lương thực, thích ứng với biến đổi khí hậu và đồng thời giảm thiểu các tác động bất lợi từ quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. (5)
Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng là: “Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ cải thiện môi trường, chủ động tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu” (6).
Trong thời gian tới, để thực hiện tốt các nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong điều kiện mới quốc tế và trong nước, ngoài các định hướng trên, theo chúng tôi cần tập trung vào một số giải pháp trọng yếu sau:
– Tiếp tục thay đổi nhận thức, tuyên truyền sâu rộng về tầm quan trọng của môi trường sinh thái, trên cơ sở này xây dựng ý thức sinh thái, tức là làm cho mọi người nhận thức được một cách tự giác về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Con người cần phải nhận thức lại vị trí vai trò của mình và xã hội trong hệ thống tự nhiên. Thông qua quá trình phát triển khoa học công nghệ, nhất là trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, con người cần nắm bắt được các quy luật của tự nhiên và tìm cách vận dụng một cách hợp lý các quy luật đó vào thực tiễn của xã hội, để tạo cơ sở tự nhiên bền vững cho phát triển xã hội.
– Giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường theo chủ trương của Đảng. Đối với nước ta hiện nay, để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần đổi mới công nghệ, tăng năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế. Đổi mới công nghệ bằng hai con đường: Chuyển giao công nghệ và tự tiếp thu công nghệ hiện đại có hàm lượng chất xám cao và công nghệ sạch, từ đó chúng ta mới có thể thực hiện được công nghiệp hóa hiện đại hóa rút ngắn, đồng thời đó cũng chính là phương thức hữu hiệu nhất để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. Đảng ta khẳng định: Phát triển khoa học công nghệ gắn liền với bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững. Do vậy, chúng ta chủ trương không nhập công nghệ gây ô nhiễm môi trường sinh thái với bất kỳ điều kiện nào. Phát triển kinh tế trên sự hủy hoại môi trường cũng đồng nghĩa với sự kết án tương lai của mình. Mục tiêu chuyển giao công nghệ phải làm sao vừa đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm vấn đề môi trường sinh thái.
– Nền sản xuất xã hội cần phải thực hiện thêm chức năng tái sản xuất các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Khắc phục tình trạng tiêu xài phung phí nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được (các nguyên, nhiên liệu hóa thạch), cần tận dụng tối đa tính năng vốn có sử dụng tài nguyên thiên nhiên từ bề rộng sang bề sâu, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
– Triển khai thực hiện đầy đủ Luật bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm về tài nguyên môi trường, tập trung xử lý các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Kiểm soát an toàn, xử lý ô nhiễm môi trường do hậu quả của chiến tranh. Tăng cường giám sát công khai đầy đủ, kịp thời thông tin về chất lượng môi trường không khí ở các đô thị, khu công nghiệp tập trung, khu đông dân cư. Cải thiện rõ rệt tình trạng ô nhiễm môi trường ở các cụm công nghiệp, làng nghề và khu vực nông thôn.
– Trong điều kiện mới hiện nay, nhất là từ cuối năm 2019, đại dịch Covid-19 đã lan rộng sang phạm vi toàn cầu, tác động sâu rộng đến kinh tế, chính trị, thể chế và được xác định là thách thức lớn nhất của nhân loại sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay; đại dịch cũng được xác định liên quan đến vấn đề môi trường. Điều này cho thấy mục tiêu phát triển bền vững ở phạm vi toàn cầu, môi trường đang bị tổn thương.
Trong bối cảnh chung như vậy, Việt Nam đang là điểm sáng nổi lên về phòng chống đại dịch Covid-19 và phát triển kinh tế xã hội. Năm 2020, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 2,9% là mức cao của khu vực và thế giới.
Chính phủ chủ trương không đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế, Thủ tướng chính phủ đưa ra kế hoạch trồng 1 tỷ cây xanh từ nay đến năm 2025.
Tuy nhiên, chúng ta không chủ quan, cần tiếp tục tăng cường nâng cao nhận thức, có chiến lược, kế hoạch hành động cụ thể để khắc phục khó khăn, thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững về kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường trong bối cảnh mới./.
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2016. Trang 140 – 141.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2016. Trang 142.
(3) Dự thảo báo cáo chính trị của BCH TW Đảng khóa XII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Trang 25 – 26.
(4) Dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025. Trang 38, 59.
(5) Dự thảo báo cáo chính trị của BCH TW Đảng khóa XII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Trang 42.
(6) Dự thảo báo cáo chính trị của BCH TW Đảng khóa XII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Trang 62.