Đây là công ty liên doanh giữa VRG với hai doanh nghiệp của Nhật Bản là Công ty Cổ phần Ka To Office và Công ty Cổ phần JTC nhằm đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm cao su thiên nhiên của Việt Nam ra thị trường mới.
Ngành cao su Việt Nam tái cơ cấu và áp dụng khoa học kỹ thuật
Để đáp ứng được nhu cầu thị trường cũng như chất lượng sản phẩm, ngành cao su Việt Nam đã và đang tái cơ cấu và được khuyến khích áp dụng khoa học kỹ thuật.
Nguồn cung thế giới sụt giảm giúp lượng xuất khẩu và tiêu thụ cao su tăng mạnh
Ngành cao su Việt Nam vẫn duy trì được sự ổn định thông qua việc xuất khẩu với giá cao đến các thị trường quốc tế, cùng với mức tiêu thụ liên tục ổn định.
Mức tiêu thụ cao su duy trì tốc độ ổn định
Ông Võ Hoàng An, Tổng thư ký Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), cho biết hiện Việt Nam có quy mô sản lượng mủ cao su đạt 1.300.000 tấn/năm từ 910.000 ha diện tích trồng cây. Tuy nhiên, chỉ 70 – 75% trong số này là các cây cao su trưởng thành sẵn sàng khai thác.
Hơn 300.000 tấn/năm được sử dụng trong sản xuất chế biến là đòn bẩy cho sự trở lại mạnh mẽ của cao su tại Việt Nam. Việc này đã mở ra một dư địa lớn cho xuất khẩu nguyên liệu cao su. Đặc biệt trong bối cảnh nguồn cung toàn cầu có khả năng tiếp tục gặp thiếu hụt vào các năm 2024 – 2025.
Tăng trưởng tiêu thụ cao su thiên nhiên toàn cầu, dự kiến duy trì ở mức 4-6% hàng năm, chủ yếu nhờ sự phục hồi của ngành sản xuất ô tô và lốp xe, đặc biệt là ở Trung Quốc. Các thị trường như Thái Lan, Ấn Độ cũng ghi nhận tăng trưởng tích cực trong sản xuất và xuất khẩu lốp xe.
Không chỉ giới hạn trong ngành ô tô, cao su tự nhiên còn là thành phần trong nhiều sản phẩm từ vật liệu cách nhiệt đến lốp máy bay. Qua đó đã thúc đẩy ngành này đạt doanh thu ước tính lên tới 30.914 triệu USD vào năm 2033.
Chủ động tái cơ cấu để duy trì ổn định sản xuất
Trước tình hình đầy biến động của xuất nhập khẩu, các công ty đã chủ động tái cơ cấu giúp công ty duy trì ổn định sản xuất. Đồng thời tập trung vào việc tối ưu các hoạt động sản xuất và kinh doanh bằng cách tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có.
Các công ty cao su chủ động tái cơ cấu để duy trì ổn định sản xuất ngành cao su
Ngoài ra, các công ty cao su cũng chủ động trước thị trường để linh hoạt trong tiêu thụ sản phẩm, chăm sóc khách hàng hiện tại và mở rộng tìm kiếm khách hàng mới. Ngoài ra, tập trung vào quản lý chi phí sản xuất ngay từ đầu năm để hạn chế ảnh hưởng của biến động nguyên vật liệu và chi phí lao động.
Hiện nay, khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin được áp dụng triệt để nhằm tăng hiệu quả sản xuất. Các công ty nỗ lực tìm kiếm nguyên vật liệu thay thế hiệu quả, đẩy mạnh gia công bên ngoài để giải quyết hạn chế về mặt bằng và nhân lực. Đồng thời củng cố bộ phận bán hàng và phát triển sản phẩm phù hợp với nhu cầu đa dạng của thị trường.
Trung Quốc vẫn là thị trường chủ lực xuất khẩu cao su của Việt Nam
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dự báo năm 2024 tiếp tục là một năm có nhiều khó khăn, thách thức trên thị trường quốc tế. Nhu cầu của Trung Quốc – thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam vẫn là yếu tố chủ chốt tác động đến hoạt động xuất khẩu cao su của Việt Nam.
Trong tháng 3/2024, lượng xuất khẩu cao su sang Trung Quốc chiếm 52,83% tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước, với gần 61,34 nghìn tấn, trị giá 90,72 triệu USD (Giảm 29,3% về lượng và giảm 24,3% về trị giá).
Từ đầu năm đến nay, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các loại cao su tự nhiên và cao su tổng hợp. Trong đó, hỗn hợp cao su tự nhiên và cao su tổng hợp (HS 400280) chiếm 55,55% tổng lượng xuất khẩu, với 99,5% lượng này được xuất sang Trung Quốc.
Theo Cơ quan Hải quan Trung Quốc, nhập khẩu cao su từ Thái Lan, nhà cung cấp lớn nhất, giảm 29,6% xuống còn 588.265 tấn so với năm ngoái. Trong khi đó, Việt Nam, nhà cung cấp lớn thứ hai, chỉ giảm nhẹ 3,1% với 402.669 tấn.
Thị phần trong tổng nhập khẩu cao su từ Việt Nam của Trung Quốc nửa đầu năm 2024 tăng từ 21,2% của năm 2023 lên 22,3%. Trong hơn 10 năm, thị phần của Việt Nam đã tăng từ 4,7% lên hơn 22% như hiện nay. Trái lại, thị phần Thái Lan giảm từ hơn 40% xuống 32,6%, phản ánh sự thay đổi xu hướng nhập khẩu cao su của Trung Quốc.
Hiện tại, giá cao su tự nhiên đang đạt mức cao nhất trong vòng 7 năm qua do nhu cầu từ ngành công nghiệp xe điện ở Trung Quốc tăng mạnh. Với khoảng 80% tổng lượng cao su xuất khẩu từ Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc, mở ra cơ hội lớn cho ngành cao su Việt Nam.
VIRAC còn cung cấp hệ thống dữ liệu kinh tế Data Factory để phục vụ các cá nhân tra cứu dữ liệu thô. Data Factory VIRAC cung cấp dữ liệu của 456 mã ngành với thông tin: Số lượng doanh nghiệp; Số lượng lao động; Doanh thu thuần; Tài sản cố định; Vốn đầu tư cơ bản; Lợi nhuận trước thuế; Thuế và các khoản phải nộp của các ngành kinh tế.
Ngoài ra, thống kê nâng cao Data Factory VIRAC còn cung cấp dữ liệu về sản xuất, tiêu thụ, tồn kho của 1910 sản phẩm theo từng quý, từng tỉnh thành và toàn quốc.
Để tìm hiểu cụ thể hơn về Data Factory VIRAC, vui lòng gửi thông tin tới Zalo Official Account hoặc quét mã QR bên dưới.
VIRAC được thành lập bởi đội ngũ nhân sự uy tín và có chuyên môn về thông tin, tài chính và nghiên cứu thị trường trong khu vực. VIRAC chuyên cung cấp các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến:
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tháng 9/2023, lượng cao su xuất khẩu sụt giảm nhẹ sau hai tháng tăng liên tiếp. Cụ thể, tháng 9/2023, Việt Nam xuất khẩu được 193,3 nghìn tấn cao su, trị giá 251,76 triệu USD, giảm 13,1% về lượng và giảm 12,3% về trị giá so với tháng 8/2023; so với tháng 9/2022 giảm 0,2% về lượng và giảm 10% về trị giá.
Tính chung 9 tháng năm 2023, xuất khẩu cao su đạt hơn 1,4 triệu tấn, trị giá 1,87 tỷ USD, tăng 0,4% về lượng, nhưng giảm 18,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Trung Quốc luôn luôn là thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam, chiếm 80,88% về lượng và chiếm 80,41% về trị giá trong tổng xuất khẩu cao su của cả nước, tháng 9/2023 đạt 156,34 nghìn tấn, trị giá 202,44 triệu USD. Đây là tháng thứ 8 liên tiếp lượng cao su xuất khẩu sang Trung Quốc tăng so với cùng kỳ năm 2022. Tính chung 9 tháng năm 2023, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 1,09 triệu tấn cao su, trị giá 1,44 tỷ USD, tăng 10,7% về lượng, nhưng giảm 8,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Trong tháng 9/2023, mặc dù xuất khẩu cao su giảm, nhưng lượng cao su xuất khẩu sang một số thị trường vẫn tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước như: Pakistan tăng 169,1%; Đức tăng 36,6%; Sri Lanka tăng 22,6%; Indonesia tăng 16,5%; Mỹ tăng 10%...
Trong 9 tháng năm 2023, xuất khẩu cao su sang các thị trường phần lớn đều sụt giảm so với 9 tháng năm 2022, đặc biệt là các thị trường như: Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ, Đài Loan, Indonesia, Sri Lanka, Nga… Tuy nhiên, xuất khẩu sang một thị trường chủ chốt vẫn tăng trưởng về lượng so với cùng kỳ năm 2022 như: Trung Quốc, Hà Lan, Achentina, Pháp...
Xuất khẩu cao su 9 tháng năm 2023
(Tính toán từ số liệu công bố ngày 13/10/2023 của TCHQ)
Áp dụng sáng kiến sáng tạo trong sản xuất ngành cao su Việt Nam
Kể từ khi cây cao su và ngành công nghiệp chế biến mủ cao su được du nhập vào nước ta đến nay, nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật đã được phát triển bởi quản lý và công nhân, góp phần đáng kể vào lợi ích kinh tế cho xã hội và ngành công nghiệp cao su.
Công ty Cao su Đồng Nai đã phát triển máy cán ép mini, giúp tiết kiệm chi phí và tăng năng suất, lợi ích kinh tế ước tính lên đến 1 tỷ đồng mỗi năm. Hệ thống định lượng phụ gia cho ván ép được Công đoàn Công ty MDF VRG Quảng Trị chế tạo đã nâng cao chất lượng sản phẩm và tiết kiệm nguyên liệu, đạt lợi ích 3 tỷ đồng. Công ty CP Cao su Bà Rịa Kampong Thom tái sử dụng tấm nilon thải từ nhà máy để lót mủ, làm giảm chi phí vật liệu và tạo ra lợi ích hơn 4 tỷ đồng.